Lịch sử hoạt động USS Angler (SS-240)

1943

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại các vùng biển ngoài khơi New London, ConnecticutNewport, Rhode Island, Angler chuẩn bị để được điều động sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương. Nó lên đường đi Key West, Florida, đến nơi vào ngày 21 tháng 11, 1943, và hoạt động như tàu huấn luyện cho Trường Sonar Hạm đội trong một tuần lễ, rồi hướng sang vùng kênh đào Panama. Chiếc tàu ngầm đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 27 tháng 11.[1]

1944

Chuyến tuần tra thứ nhất

Khởi hành từ Trân Châu Cảng vào ngày 10 tháng 1, 1944 cho chuyến tuần tra đầu tiên tại khu vực quần đảo Mariana, Angler bắt gặp một đoàn tàu vận tải vào ngày 29 tháng 1. Nó đã phóng ngư lôi tấn công, đánh chìm được chiếc Shuko Maru (889 tấn) và gây hư hại cho hai chiếc khác. Do gặp trục trặc phát sinh tiếng động trong cấu trúc khiến không thể di chuyển ngầm ở chế độ im lặng, chiếc tàu ngầm phải quay trở về đảo Midway để sửa chữa vào ngày4 tháng 2.[1]

Chuyến tuần tra thứ hai

Trong chuyến tuần tra thứ hai từ ngày 15 tháng 2 đến ngày 9 tháng 4 tại các vùng bờ biển phía Đông Philippines, biển Mindanaobiển Sulu, theo yêu cầu của Đại tướng Douglas MacArthur, Angler đã giúp vào việc di tản 58 thường dân khỏi đảo Panay để tránh bị quân Nhật thảm sát, và đưa họ đến Fremantle, Australia.[1]

Chuyến tuần tra thứ ba

Khởi hành vào ngày 3 tháng 5 cho chuyến tuần tra thứ ba, Angler nằm trong số tám tàu ngầm được phân công hỗ trợ cho Chiến dịch Transom, cuộc không kích từ tàu sân bay thuộc Hạm đội Đông Anh Quốc xuống Surabaya trên đảo Java. Nhiệm vụ của lực lượng tàu ngầm là đánh chìm tàu chiến đối phương rút lui, phục vụ tìm kiếm và giải cứu, đồng thời canh phòng các eo biển SundaLombok là các lối chính từ biển Java vào Ấn Độ Dương. Hoạt động duy nhất của trong đợt này là đã phóng ngư lôi đánh chìm tàu buôn Otori Maru (2.105 tấn) vào ngày 20 tháng 5. Tàu hộ tống đối phương đã phản công nhưng không ảnh hưởng gì cho chiếc tàu ngầm.[1]

Sang ngày hôm sau, thủy thủ đoàn của Angler bắt đầu mắc triệu chứng nôn mửa hàng loạt, và con tàu được lệnh quay về căn cứ Fremantle. Các tàu ngầm Flasher (SS-249)Crevalle (SS-291) cùng tàu tiếp liệu thủy phi cơ Childs (AVD-1) đã đi đến để hộ tống và trợ giúp y tế cho Angler, và nó về đến căn cứ vào ngày 29 tháng 5. Kết quả điều tra cho biết một hộp hóa chất carbon tetrachloride dùng trong tẩy rửa đã được lén đem lên tàu cho dù đây là điều bị nghiêm cấm.[1]

Chuyến tuần tra thứ tư

Bắt đầu chuyến tuần tra thứ tư vào ngày 21 tháng 6, Angler đang được tiếp nhiên liệu từ một sà lan trong vịnh Exmouth vào ngày 24 tháng 6 khi nó va phải một dãi đá ngầm không được thể hiện trên hải đồ. Nó phải quay trở về Fremantle để sửa chữa, rồi lại khởi hành vào ngày 29 tháng 6 với một chân vịt mới. Nó gặp gỡ Flasher và Crevalle để hình thành nên một trong những đội tấn công phối hợp "Bầy sói" đầu tiên của Hải quân Mỹ. Tuy nhiên chuyến tuần tra của họ trong biển Đông và dọc theo bờ biển Đông Dương thuộc Pháp đã không đem lại kết quả, nên đội chuyển sang hoạt động ngoài khơi bờ biển phía Tây đảo Luzon. Vào ngày 25 tháng 7, đội bắt gặp một đoàn tàu vận tải lớn đang hướng lên phía Bắc, và đã truy đuổi và tấn công trong những ngày tiếp theo. Trong khi bản thân Angler không đánh chìm được tàu buôn nào, những các tàu ngầm khác trong đội đã đánh chìm sáu tàu với tổng tải trọng 36.000 tấn. Không bắt gặp mục tiêu nào khác, chuyến tuần tra kết thúc tại Fremantle vào ngày 23 tháng 8.[1]

Chuyến tuần tra thứ năm

Lên đường vào ngày 18 tháng 9 cho chuyến tuần tra thứ năm, Angler phối hợp với tàu ngầm Bluegill (SS-242) hoạt động trong biển Sulu. Vào ngày 14 tháng 10, nó phóng ngư lôi đánh chìm tàu vận tải Nanrei Maru (2.407 tấn). Bắt gặp những binh lính và thủy thủ Nhật Bản trôi nổi trên biển vào ngày 22 tháng 10 sau một vụ đắm tàu, chiếc tàu ngầm bắt làm tù binh chiến tranh một sĩ quan và hai hạ sĩ quan Nhật sau khi giúp thức ăn, nước uống và chỉ đường cho những người sống sót còn lại. Đến 19 giờ 15 phút ngày hôm sau, nó phát hiện hạm đội Nhật Bản đang trên đường hướng sang vịnh Leyte tham gia vào trận Hải chiến vịnh Leyte; chiếc tàu ngầm theo dõi lực lượng đối phương cho đến 02 giờ 40 phút sáng ngày 24 tháng 10 và báo cáo tin tức tình báo quan trọng này lên cấp trên. Đến ngày 1 tháng 11, nó gặp gỡ tàu ngầm Hardhead (SS-365) và đón lên tàu Trung tá Hải quân Fred E. Bakutis, phi công hải quân được Hardhead cứu vớt ít lâu trước đó, rồi về đến Fremantle vào ngày 9 tháng 11.[1]

Chuyến tuần tra thứ sáu

Rời Fremantle vào ngày 4 tháng 12 cho chuyến tuần tra thứ sáu, Angler phục vụ trong vai trò tìm kiếm và giải cứu tại khu vực biển Java. Khi tàu ngầm Bergall (SS-320) bị một tàu khu trục đối phương đánh hỏng lườn tàu chịu áp lực vào ngày 13 tháng 12 và không thể lặn, Angler được lệnh đi đến trợ giúp cứu vớt thủy thủ đoàn Bergall và đánh chìm chiếc tàu hỏng. Khi tìm thấy vào ngày 15 tháng 12, Trung tá John Hyde, hạm trưởng của Bergall, quyết định ở lại tàu cùng một thủy thủ đoàn khung để tìm cách đưa Bergall về căn cứ. Hai chiếc tàu ngầm đã đi trên mặt biển gần 2.000 nmi (3.700 km), ngang qua các vùng biển hầu như bị đối phương kiểm soát, không bắt gặp máy bay hay tàu chiến đối phương cho đến khi về đến vịnh Exmouth vào ngày 20 tháng 12.[1]

1945

Angler tiếp tục chuyến tuần tra nhưng không bắt gặp mục tiêu đối phương nào. Nó đi đến Saipan vào ngày 6 tháng 2, 1945, rồi lên đường quay trở về Trân Châu Cảng và tiếp tục hướng về vùng bờ Tây, đến nơi vào ngày 24 tháng 2. Chiếc tàu ngầm được đại tu tại xưởng tàu của hãng Bethlehem SteelSan Francisco, California.[1]

Chuyến tuần tra thứ bảy

Lên đường vào ngày 18 tháng 5 để quay trở lại Trân Châu Cảng, Angler bắt đầu chuyến tuần tra thứ bảy từ ngày 12 tháng 6, và được tiếp thêm nhiên liệu tại Saipan vào ngày 27 tháng 6 trước khi hoạt động tại vùng biển phía Đông đảo Honshū. Vào lúc này mục tiêu phù hợp đã hiếm hoi và nó chỉ có cơ hội trong hai lần bắt gặp tàu đối phương; một chiếc đã di chuyển nhanh hơn nó, và chiếc thứ hai bị nhắm phóng ngư lôi ngưng trượt mục tiêu. [1]

Angler chuyển sang hoạt động bắn phá bờ biển. Nó trinh sát các cơ sở trên đảo Kinkasan vào ngày 26 tháng 7, và bắn phá một căn cứ, trạm vô tuyến và hải đăng với 25 phát đạn pháo 5 in (130 mm) từ khoảng cách 3.000–4.000 yd (2,7–3,7 km). Năm ngày sau đó chiếc tàu ngầm lại trồi lên mặt nước vào chiều tối ngày 31 tháng 7 để nả 50 phát đạn pháo nhắm vào một nhà máy tại Tomakomai trên đảo Hokkaidō. Đến ngày 1 tháng 8, nó cùng các tàu ngầm Sea Poacher (SS-406)Thornback (SS-418) trong một đợt tấn công càn quét tàu bè nhỏ đối phương. [1]

Qauy trở về Midway vào ngày 9 tháng 8, Angler vẫn đang ở lại đảo này khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột. Nó lên đường vào ngày 26 tháng 8 để quay trở về Trân Châu Cảng, rồi tiếp tục hành trình hướng về Hoa Kỳ, băng qua kênh đào Panama vào ngày 14 tháng 9 và đi đến New Orleans, Louisiana vào 20 tháng 9. Sau khi được bảo trì, nó lên đường đi Jacksonville, Florida vào ngày 24 tháng 10, ghé đến Newport vào ngày 2 tháng 11 để chất dỡ thủy lôi, rồi đi đến Căn cứ Tàu ngầm Hải quân New London vào ngày 6 tháng 11.[1]

Đi đến Portsmouth, New Hampshire vào tháng 2, 1946, Angler được chuẩn bị để ngừng hoạt động, rồi quay trở lại New London vào ngày 21 tháng 4. Nó được cho xuất biên chế tại đây vào ngày 12 tháng 2, 1947, và được đưa về Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương.[1][11][12]

1951 - 1968